I. Đại Cương
1. Suy tĩnh mạch mãn tính là gì?
Suy tĩnh mạch mãn tính (Chronic venous insufficiency: CVI) là sự trở về không đầy đủ của dòng máu tĩnh mạch ở chi dưới. Đây là một rối loạn phổ biến bao gồm hệ tĩnh mạch nông hoặc cả hệ tĩnh mạch nông và hệ tĩnh mạch sâu. Bệnh tĩnh mạch chi dưới được đặc trưng bởi nhiều triệu chứng, như tĩnh mạch giãn, phù nề, biến đổi sắc tố da và loét chân hoặc các triệu chứng chủ quan như đau, chuột rút, cảm giác nóng bỏng, nặng, ngứa, mệt mỏi ở chân, … do ứ trệ máu tĩnh mạch gây tăng áp lực tĩnh mạch. Tổn thương van tĩnh mạch là tâm điểm của tăng áp lực tĩnh mạch dẫn đến các triệu chứng của bệnh tĩnh mạch mạn tính.
Hình ảnh bệnh nhân bị suy giãn tĩnh mạch nông chi dưới
– Theo định nghĩa của WHO – Tổ chức y tế thế giới: “Suy tĩnh mạch nông mãn tính chi dưới là tình trạng tĩnh mạch nông dãn, chạy quanh co, thấy rõ dưới da và có dòng chảy trào ngược.” ( WHO )
2. Dịch tễ học:
Bệnh tĩnh mạch mạn tính rất thường gặp và ảnh hưởng trên một tỷ lệ lớn cộng đồng dân cư. Giãn tính mạch ngoằn nghoèo hay dạng mạng lưới xuất hiện rất sớm, tần suất hiện mắc có thể lên đến gần 75% các trường hợp bệnh tĩnh mạch mạn tính, và từ 5-15% bệnh nhân giãn tĩnh mạch trầm trọng . Trào ngược, phát hiện bằng siêu âm Duplex, thường xảy ra trước khi xảy ra những biểu hiện lâm sàng.
a. Tỷ lệ suy tĩnh mạch theo tuổi:
Tần suất hiện mắc tăng dần theo tuổi và tương quan trực tiếp với sự hiện diện của giãn tĩnh mạch và suy van tĩnh mạch mạn tính (CVI). Thực tế, giãn tĩnh mạch ít gặp ở trẻ con và tuổi trẻ nhưng tần suất khoảng 2% từ tuổi 35, và 40% trên 60 tuổi. Loét chân do tĩnh mạch là biểu hiện trầm trọng nhất của bệnh tĩnh mạch mạn tính, tăng đáng kể theo tuổi.
b. Tỷ lệ suy tĩnh mạch theo giới:
Mọi thầy thuốc trong phòng khám chuyên khoa tim mạch đều nhận thấy tỷ lệ lớn bệnh nhân đến khám về suy tĩnh mạch thuộc về giới nữ. Cuộc điều tra gần đây của AFFCA (Association Francais de Formation Continue en Angiologie) cho thấy nguy cơ tương đối liên quan đến giới nữ là 1,58. Tỷ lệ nhiều hơn ở nữ có thể được giải thích do sinh đẻ, các yếu tố nội tiết (Oestrogen) cũng như tuổi thọ cao hơn.
c. Yếu tố gia đình:
Các thầy thuốc thực hành đã từ lâu có nhận xét là tiền sử gia đình gặp trên 70% đến 80% các bệnh nhân có suy tĩnh mạch. Tầm quan trọng của yếu tố gia đình còn đang được bàn cãi. Một công trình nghiên cứu của AFFCA nói trên sau khi đã khám lâm sàng 134 gia đình kết luận có yếu tố di truyền trong nguyên nhân của suy tĩnh mạch.
d. Suy tĩnh mạch- bệnh của thời đại văn minh:
Nhiều thống kê cho thấy tỷ lệ suy tĩnh mạch ở các nước công nghiệp vào khoảng 20-60%. Có nhiều giả thuyết để giải thích những khác biệt đó liên quan đến địa dư kinh tế và văn hoá: lối sống tĩnh tại, tư thế đứng phổ biến ở các nước giàu, việc sử dụng thuốc tránh thai (loại nội tiết), mặc quần áo chẽn. Cách ngồi, tăng thể trọng, thói quen ăn uống ít chất xơ cũng có thể góp phần vào suy tĩnh mạch.
3. Nguyên nhân:
a. Suy tĩnh mạch tiên phát: nguyên nhân còn chưa biết rõ. Bệnh thường có tính chất gia đình và hay xảy ra ở phụ nữ.
b. Suy tĩnh mạch thứ phát: huyết khối tĩnh mạch sâu là nguyên nhân thường gặp nhất của suy tĩnh mạch thứ phát, thường mạn tĩnh và dẫn đến loét giãn tĩnh mạch.
4. Cơ chế bệnh sinh:
Tổn thương van tĩnh mạch là tâm điểm của tăng áp lực tĩnh mạch dẫn đến những triệu chứng liên quan bệnh tĩnh mạch mạn tính. Khi van trong các tĩnh mạch nông và xuyên bị suy, áp lực trong tĩnh mạch và tiểu tĩnh mạch gia tăng, dòng chảy có thể đảo ngược, dẫn đến hiện tượng trào ngược trong tĩnh mạch. Từ lúc khởi bệnh, bệnh tĩnh mach mạn tính khởi phát hàng loạt các biến cố dẫn đến các thay đổi bệnh lý xảy ra ở mức độ tĩnh mạch và mô do tăng huyết áp tĩnh mạch mạn tính gây nên. Các thay đổi đại và vi tuần hoàn tiến triển này đi kèm với các triệu chứng, nếu được điều trị sớm có thể ngăn được bệnh tiến triển đến những giai đoạn trầm trọng hơn.
Trào ngược tĩnh mạch do các van bị suy gây ra tăng áp lực tĩnh mạch, tái cấu trúc thành tĩnh mạch, tĩnh mạch giãn, và ứ trệ tĩnh mạch, các tổn thương này sẽ gây tăng áp trong mao mạch, phù nề, thiếu ô xy trong mô, thay đổi ở da và loét.
SINH LÝ BỆNH CỦA BỆNH TĨNH MẠCH MẠN |
|
Đại tuần hoàn |
Tổn thương van Ú Trào ngược Ú Giãn tĩnh mạch |
Tiểu tuần hoàn |
Tổn thương mao mạch Ú Thay đổi da Ú Loét tĩnh mạch |
II. LÂM SÀNG:
1. Triệu chứng cơ năng:
Các dấu hiệu cơ năng của suy tĩnh mạch khá phong phú, xuất hiện tương đối đột ngột và mức độ nặng tuỳ từng trường hợp. Các triệu chứng hay gặp nhất là đau, nặng chân và chuột rút.
Đau: xuất hiện dọc theo đường đi của tĩnh mạch, thường là dọc theo đường đi của tĩnh mạch, thường là dọc theo tĩnh mạch hiển trong, đôi khi hiển ngoài. Đau tăng trong chu kỳ kinh nguyệt và nhất là khi có thai.
Nặng chân: thường là bắp chân. Có thể là cảm giác mỏi chân hoặc căng ở bắp chân làm cho bệnh nhân phải ngồi nghỉ.
Chuột rút: Có thể gặp trong giai đoạn đầu của suy tĩnh mạch hiển ngoài. Tuy nhiên đây không phải là dấu hiệu đặc trưng. Trong nhiều trường hợp chuột rút có nguyên nhân là do cơ. Các cảm giác như tê bì,, ngứa, kim châm, kiến bò, tê cóng thường thoảng qua.
Đôi khi bệnh nhân có cảm giác nóng hoặc lạnh ở chi dưới, cảm giác bồn chồn ở chân khi ngồi hoặc nằm lâu một tư thế.
Đau cách hồi tĩnh mạch: Xuất hiện khi gắng sức kéo dài, chủ yếu là cảm giác căng các khối cơ ở bắp chân hoặc ở đùi. Nó tương tự với cơn đau cách hồi trong bệnh tắc nghẽn động mạch chi dưới và thấy trong hội chứng sau huyết khối tĩnh mạch kém bù do tắc các thân tĩnh mạch lớn.
Cảm giác nề ở chân đôi khi phối hợp với phù thực sự. Khi phù nhiều cần nghĩ đến hội chứng sau huyết khối tĩnh mạch hoặc suy tĩnh mạch sâu. Cũng cần loại bỏ các nguyên nhân khác gây phù.
Một trong các đặc điểm của suy tĩnh mạch là các triệu chứng thường tăng lên khi bệnh nhân đứng lâu tại chỗ, bất động, ngồi lâu, môi trường nóng, buôỉ chiều nặng hơn buổi sáng. Triệu chứng giảm bớt khi nằm.
Hỏi bệnh cho phép xác định thời gian và tình huống xuất hiện các triệu chứng đầu tiên, sự tiến triển của các triệu chứng, các yếu tố nguy cơ làm nặng bệnh.
2. Khám lâm sàng:
Cho phép xác định vị trí của giãn tĩnh mạch. Phải khám kỹ toàn bộ tĩnh mạch hiển dài ở cả đoạn đùi lẫn cẳng chân, và cả tĩnh mạch hiển ngắn ở bắp chân, các nhánh hiển trước và hiển sau, cũng như các tĩnh mạch mác hoặc tĩnh mạch phụ khác của quai tĩnh mạch hiển dài.
Sờ và gõ: dọc theo đường đi của tĩnh mạch hiển để xác định mức độ giãn cũng như độ căng của tĩnh mạch, nhất là các vùng quai là nơi thường bị giãn nhất. Giãn tĩnh mạch có thể khu trú ở 1/3 dưới hoặc 1/3 trên của đùi, giữa hoặc dưới cẳng chân do hở các tĩnh mạch thông tương ứng.
Đánh giá mức độ phù: đo bằng thước trên mắt cá, cách mặt đất một khoảng nhất định.
Dấu hiệu sóng vỗ: dùng một tay gõ nhẹ vào một đoạn nào đó của tĩnh mạch hiển trong, tay kia sờ phía trước sẽ thấy xung động dòng máu. Nghiệm pháp này cho phép khám tĩnh mạch hiển và các nhánh của nó, thường gặp trong tình trạng tiền giãn tĩnh mạch.
Thủ thuật ho : Sự nẩy lên tĩnh mạch phản hồi sau ho tạo ra do yếu van tĩnh mạch hiển trong tại lổ đổ ở tĩnh mạch hiển, tĩnh mạch đùi.
Thủ thuật ho
Thủ thuật Perthe : ở người bệnh đứng, buộc dây thun quanh qua đùi, trên đầu gối và bảo người bệnh bước đi hay đứng trên đầu ngón chân, nếu các đoạn TM dãn không xuất hiện thì các mạch nối nông – sâu bình thường và TM sâu hoạt động tốt.
Thủ thuật Perthe
Nghiệm pháp Schwart: tương tự như trên nhưng sờ ở phía sau đoạn gõ, sẽ cảm thấy rung chuyển của cột máu, chứng tỏ có hở van, áp dụng với cả tĩnh mạch hiển trong và hiển ngoài.
Nghiệm pháp Schwart
Nghiệm pháp Trendelenburg để xác định hở van ở chỗ xuất phát của tĩnh mạch hiển. Để bệnh nhân nằm ngửa, nâng chân lên để máu trong các tĩnh mạch nông thoát ra hết rồi đặt một Garrot ở gốc chân. Sau đó để bệnh nhân đứng lên và tháo bỏ Garrot. Nếu hệ thống tĩnh mạch nông được đổ đầy nhanh từ trên xuống dưới chứng tỏ có hở van. Nếu thân các tĩnh mạch giãn được đầy dần từ dưới lên trên: chứng tỏ van còn hoạt động tốt.
Nghiệm pháp Trendelenburg
Khám lâm sàng cho phép phân biệt các loại giãn tĩnh mạch khác nhau:
– Giãn mao mạch: là giãn mạng lưới mao mạch dưới tĩnh mạch ở trong da.
– Giãn tĩnh mạch dạng lưới: là giãn các tĩnh mạch nhỏ dưới da, có hình như mắt lưới thường thấy ở hõm khoeo hoặc mặt ngoài của chân.
– Giãn các thân tĩnh mạch: thường là các thân tĩnh mạch hiển dài, hiển ngắn hoặc cả hai.. Hay gặp nhất là giãn các thân tĩnh mạch hiển dài, nhất là ở đoạn cẳng chân.
Khám ngoài da để xác định hậu quả của suy tĩnh mạch nông và tình trạng ứ trệ máu tĩnh mạch. Phù thường thấy ở mu chân và cổ chân, có thể lấp đầy hõm sau mắt cá chân. Đôi khi lên đến 1/3 dưới cẳng chân. Dấu hiệu ấn lõm không rõ. Phù lâu ngày sẽ kèm theo nhiễm sắc tố da, lan toả hoặc khu trú dọc theo đường đi của tĩnh mạch, do lắng đọng Hemosiderine của hồng cầu. Các dấu hiệu khác ở da có thể gặp là: sậm màu tĩnh mạch, viêm dưới da, loét các giai đoạn khác nhau.
3. Phân loại bệnh suy tĩnh mạch mạn tính (CEAP):
a. Theo triệu chứng lâm sàng (Clinical Classification): có 6 mức độ
Ký hiệu: – Co đến C6 tuỳ mức độ nặng.
– "a": không triệu chứng; "s": có triệu chứng.
Cos: Triệu chứng: đau, cảm giác sưng, nặng chân, ngứa, chuột rút.
C1a: giãn mao mạch hoặc tĩnh mạch dạng lưới.
C1s: Giãn mao mạch hoặc tĩnh mạch dạng lưới + triệu chứng.
C2a: Trướng (Giãn to, ngoằn ngoèo) tĩnh mạch; Trướng tĩnh mạch + Triệu chứng.
C3a: Phù; C3s: Phù + Triệu chứng.
C4a: thay đổi trên da; C4s: thay đổi trên da + triệu chứng.
C5a: thay đổi trên da có vết loét đã lành; C5s: thay đổi trên da có vết loét đã lành + triệu chứng.
C6a: thay đổi trên da có vết loét chưa lành; C6s: thay đổi trên da có vết loét chưa lành + triệu chứng.
b. Theo nguyên nhân (Etiological Classification):
Ec: Nguyên nhân di truyền tiên phát.
Ep: Nguyên nhân nguyên phát.
Es: Nguyên nhân thứ phát.
c. Theo phân bố giải phẫu (Anatomical Classification):
As: hệ tĩnh mạch nông
Ad: hệ tĩnh mạch sâu
Ap: hệ tĩnh mạch xuyên
d. Theo cơ chế sinh lý bệnh học (Pathological classification):
Pr: Hồi lưu.
Po: tắc nghẽn
Pro: hồi lưu + Tắc nghẽn.
III. CẬN LÂM SÀNG:
1. Siêu âm Doppler tĩnh mạch:
Máy siêu âm Doppler sử dụng một chùm siêu âm giúp đo vận tốc dòng chảy trong các mạch máu và quan trọng là tìm hướng máu đến tim đối với dòng máu tĩnh mạch bình thường và ở bàn chân để tìm hồi lưu bệnh lý.
Siêu âm Duplex:
Đây là máy kết hợp Doppler màu, Doppler xung và siêu âm 2D, cho phép giải phẫu học và huyết động học hoàn chỉnh không chỉ hạn chế ở hệ tĩnh mạch chi dưới. Siêu âm Doppler màu là phương pháp được lựa chọn để đánh giá mức độ suy tĩnh mạch nông và sâu. Siêu âm cắt lớp cho phép nhìn thấy những cấu trúc mạch cần nghiên cứu, do đó có thể đặt chính xác cửa sổ Doppler để tìm dòng chảy ngược. Với Doppler màu, dòng chảy ngược sẽ thể hiện bằng đổi màu từ xanh sang đỏ hoặc ngược lại tuỳ theo hướng cảu đầu dò. Siêu âm Duplex được chỉ định để thăm khám các giãn tĩnh mạch, bệnh tĩnh mạch nông và sâu, như viêm tĩnh mạch huyết khối và bệnh sau viêm tĩnh mạch..
Qui trình siêu âm:
Bắt đầu bằng siêu âm lần lượt từng điểm một suốt dọc trục TM từ TM chủ tới các TM ở chân, quan sát các TM ở các mặt cắt ngang và mặt cắt dọc: đánh giá lòng TM, thành TM, tổ chức xung quanh. Ở mỗi mặt cắt đều phải dùng đầu dò ấn vào TM, nếu TM bình thường sẽ xẹp lại. Phải thăm dò cả hai bên chân. Có thể kết hợp thăm dò siêu âm với Doppler xung hay Doppler màu bằng cách thay đổi tốc độ để có thể ghi được dòng chảy TM với tốc độ thấp.
2. Chụp X quang tĩnh mạch:
Ngày nay ít phổ biến do sự phát triển của siêu âm Doppler.
Đây là một xét nghiệm được chọn để chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu và cho thấy rõ cục huyết khối. Xét nghiệm này có chỉ định làm khi lâm sàng và các xét nghiệm không chảy máu khác không cho phép ta có được một chẩn đoán chắc chắn. Người ta tiêm một chất cản quang vào trong một tĩnh mạch của bàn chân, rồi chụp X quang hàng loạt sẽ cho ta thấy rõ được sự lưu thông của chất cản quang trong những tĩnh mạch chính của chi dưới như thế nào. Cần lưu ý là chất cản quang là một chất kích thích và nó có thể gây ra viêm tĩnh mạch nông rất đau.
IV. CHẨN ĐOÁN:
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán:
– Theo khuyến cáo và phân loại của International Consensus Commitee on Chronic venous Disease (1995): C0s đến C6s (như trên).
2. Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán phân biệt với các bệnh có đau, phù ở một hoặc cả hai bên chân, như huyết khối tĩnh mạch sâu, viêm khớp mắt cá chân hay khớp gối, loãng xương, thiểu dưỡng, bệnh thận,…
V. BIẾN CHỨNG:
1. Viêm tĩnh mạch nông huyết khối.
2. Chảy máu nặng do giãn vỡ tĩnh mạch.
3. Nhiễm khuẩn vết loét của suy tĩnh mạch mạn tính.
VI. ĐIỀU TRỊ:
A. ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA:
1. Thay đổi lối sống, hạn chế các yếu tố nguy cơ:
– Thường xuyên tập thể dục, nhất là các bài tập giơ chân cao trên giường, đạp xe, đi bộ, bơi lội.
– Tránh đứng hay ngồi lâu.
– Mang giày cao gót vừa phải (3-4 cm).
– Tránh mặc quần áo chật gây cản trở lưu thông máu trong tĩnh mạch.
2. Băng ép:
Băng ép là một loại băng đặc biệt tạo nên một áp lực lên bề mặt da ở chi dưới hoặc chi trên nhằm chống lại tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch, là nguyên nhân gây phù, giãn tĩnh mạch và các biến chứng khác. Băng ép tác động không những lên tĩnh mạch, bạch mạch mà còn lên tình trạng vi tuần hoàn.
Chỉ định:
– Dự phòng bệnh tĩnh mạch chi dưới.
– Duy trì kết quả đã đạt được bằng băng ép.
– Ngăn ngừa các biến chứng tái phát của suy tĩnh mạch.
– Các bệnh nhân có chống chỉ đinh tạm thời hoặc vĩnh viễn với các biện pháp điều trị nội khoa tích cực, gây xơ hoặc ngoại khoa.
Chống chỉ định:
– Các trường hợp phù nhiều.
– Viêm dưới da cấp, nhiễm trùng da.
– Viêm tắc động mạch giai đoạn III không phù.
– Tổn thương da tiến triển đang được điều trị bằng các thuốc mỡ.
3. Dùng các thuốc trợ tĩnh mạch:
Có nhiều biệt dược trên thị trường, thường dùng là: Daflon, Ginkor Fort, Cyclo 3 Fort.
4. Liệu pháp gây xơ hoá tĩnh mạch:
Nguyên lý: Tĩnh mạch giãn được tiêm một chất (dịch lỏng gây xơ hoá) làm tổn thương lớp lót mặt trong tĩnh mạch, dẫn đến một phản ứng viêm và rốt cuộc là phá bỏ tĩnh mạch bị giãn này.
Chỉ định:
– Giãn mao mạch (đường kính < 1 mm).
– Giãn tĩnh mạch nhỏ (đường kính 1-3 mm).
– Sót hoặc tái phát tĩnh mạch nhỏ sau mổ (không hồi lưu) (đường kính < 4 mm).
– Dị dạng nhỏ ở tĩnh mạch không có chỉ định phẫu thuật.
– Hở tĩnh mạch xuyên.
– Tĩnh mạch giãn xung quanh vết loét tĩnh mạch chân.
B. PHẪU THUẬT TĨNH MẠCH:
1. Thủ thuật cắt bỏ tĩnh mạch có kèm theo hoặc không thắt các tĩnh mạch xuyên là phẫu thuật lấy ra một đoạn tĩnh mạch qua một đường rạch da 1-2 mm,
Chỉ định:
– Giãn các thân tĩnh mạch.
– Phẫu thuật thẩm mỹ giãn tĩnh mạch.
– Loét giãn tĩnh mạch muốn điều tị khỏi nhanh, hoặc để phòng ngừa chứng này.
2. Bóc tĩnh mạch bằng kỹ thuật lộn tĩnh mạch:
– Là một trong nhiều kỹ thuật ngoại khoa để cắt bỏ những TM giãn lớn.
– Kỹ thuật: Dưới gây tê, một đoạn dây kim loại được luồn vào tĩnh mạch để có thể lấy tĩnh mạch ra bằng cách lộn mặt trong ra ngoài như lộn ngón găng tay. Thủ thuật này có thể được thực hiện tại phòng khám và bệnh nhân có thể về nhà trong ngày.
Có nhiều phương pháp điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới, tùy vào mức độ và điều kiện cụ thể của từng bệnh nhân để chọn lựa phương pháp phù hợp nhất.
Điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới bằng Laser tĩnh mạch là một phương pháp hiện đại với nhiều ưu điểm. Hiện tại, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã triển khai thành công kỹ thuật này, 100% bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này đều hài lòng với kết quả đạt được.
Nếu quý vị bị bệnh suy giãn tĩnh mạch nông chi dưới có thể liên hệ với chúng tôi để được tư vấn, hỗ trợ.
Địa chỉ liên hệ:
Bs Mai Văn Lực – SĐT 0984.260.391 – Email: maivanluc@hmu.edu.vn